Historical Vietnam Events
HOA XƯƠNG RỒNG---1./ Gia thế cô Út Hết. Trong làng không ai biết tên thật của cô là gì. Người ta chỉ quen gọi cô là cô Út Hết, như ba má cô, ông bà Mười đã gọi thế . Và mọi người cũng gọi thế. Cũng không ai thắc mắc hay bận tâm tìm hiểu dù đời sống cô Út cũng một thời là đề tài cho mọi người xì xầm bàn tán. Dường như trong cái dáng vẻ tưởng chừng như êm đềm mộc mạc của thôn làng thì mọi sự rồi có thể sẽ hòa tan mất hút….Nhưng không. Chỉ cần một xao động nhỏ nhoi trên mặt hồ tĩnh lặng là sóng cuộn sẽ nổi lên…Dềnh khắp. Sóng không hiền hòa như nước tĩnh yên. Mà sóng đôi khi biến thành cơn bão, sẵn sàng cuốn phăng đi những phần đời đen bạc…. Ông Mười, cha cô là con trai Út nhưng người trong làng không gọi ông là ông Út vì ông có người em gái mới sinh ra đã chết vì thai thiếu tháng. Theo tập tục người Nam thì con trai Út sẽ hưởng phần hương hỏa và phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Lâu quá người ta cũng không nhớ tên ông là gì chỉ biết là ông thứ mười và ông được gọi là ông Mười. Ông có 12 người con cả thảy. Khác với người đời thường nghĩ, hể đặng” hào con thì mất hào cùa”…Đàng nầy ông đặng cả hai, bạn cố cựu thâm giao thường gọi đùa là ông có chục con nhưng là “ chục có đầu”. Hiềm có điều là lớn lên con cái tứ tán hết. Cô con gái đầu hiền, bản tính yếu đuối,có chồng theo kháng chiến sau được tin mất tích và theo sự sắp xếp của ông Mười, cô bồng con về nương tựa với gia đình đứa em trai lớn là cậu Bảy, là người làm việc có chức phận nơi thành phố, thủ phận vú em chăm sóc mọi việc trong nhà cho cô em dâu khó tính nhưng khéo được chồng vị nể. Cô Ba kế là người đàn bà tính tình quắc thước ngay thẳng có tay làm giàu nhờ buôn bán cũng theo chồng về thủ đô sinh sống . Người thứ tư và thứ năm đã chết khi được vài tuổi vì bệnh đậu mủa bộc phát khắp thôn làng. Người con trai thứ sáu là người “trọng nghĩa khinh tài”,tính tình rất phóng khoáng không thích công danh ràng buộc chỉ muốn ngao du sông nước với bạn hữu thâm tình. Cậu là người có tài nhưng bỏ học nửa chừng đi lang bạc kỳ hồ và sau cùng về thành phố an cư lập nghiệp. Cô thứ tám dẫn theo người người em trai thứ chín vào bưng mất dạng. Người trai lớn thứ mười còn có tên gọi là Út Rớt, được nuôi ăn học ở tỉnh sau được bổ làm phó Quận ở miền tây, có công giữ được quận hạt an ổn trong thời binh biến được cấp trên sũng ái nên đã lập nghiệp luôn nơi quê vợ. Người thứ mười một là cậu Út Còn, tốt nghiệp sĩ quan và đã tử trận ở tuổi thanh xuân. Người thứ mười hai là cô Út Nữa, là một người đàn bà rất đảm đang và xốc vác, lấy chồng ở quận xa nhưng cùng tỉnh. Rất khá giã, xây dựng cả “giang sang nhà chồng” rất ít khi về thăm cha mẹ vì bận quán xuyến trong ngoài. Chỉ còn lại đơn độc có mình cô út Hết là cam phận lỡ làng. Dù cô cũng được đôi ba đám ghắm ghé trầu cau và nghe đâu cũng có vài mối tình nên thơ khi còn ở tuổi xuân thì. Nhìn vào thì gia đình ông Mười là một gia đình bề thế ở làng vì ông là người có sở học cao và có uy tín lớn trong làng nước. Người ta đồn đoán là giòng họ ông có của cải ngầm với bao huyền thoại rực rỡ được thêu dệt chung quanh. Con cái được chăm lo cho ăn học tới nơi tới chốn, không phải ở trường làng mà học ngoài Huyện và lên tỉnh hoặc chuyển về Saigon. Ai cũng mong ước được như gia đình ông là con cái nên danh yên phận, học hành chức tước rỡ ràng. Nhưng không ai nghe được nỗi đau trong lòng người cha già như cây cổ thụ chơ vơ cùng năm tháng, lặng nhìn những chiếc lá xanh tản tác muôn nơi với ước mơ duy nhất là có đứa sẽ giống mình, khi mỏi gối chồn chân sẽ về đây lập nghiệp tại thôn làng nầy, phần đất linh thiêng của giòng họ ông đã khai phá và trụ lại bao đời …. Nhưng ông. Ông cũng đâu nghe được tiếng trăn trở của những giòng sông nhỏ quanh ông? Nước khi nào cũng muốn bươn xa lìa đất…Sóng cuốn nước phăng tới trước chứ đâu muốn quay lui ? Phần đất linh thiêng của tổ tiên là quá khứ. Là cái bóng là sự dừng chân ngơi nghỉ. Còn con nước phải xuôi đi, trèo đổ, xoi mòn hay vun đắp!…Và không bao giờ mong muốn nghỉ ngừng. 2./ Nỗi lòng người Mẹ. &a mp;n bsp; Là Là mẹ, bà Mười như cái bóng, bên chồng. Lặng lẽ. Mỗi ngày cơ hồ như chùn xuống nhỏ bé hơn khi đôi vai căng ra thêm lớn với nỗi đau bất tận. Những đứa con bứt nôi quá sớm,…”Tổ quốc ghi công” cũng như “Gia đình liệt sĩ” là vết thương sâu thẳm trong cõi lòng người mẹ chưa nhìn rõ mặt đứa con ở những ngày mới lớn. Bà không sao quên được cô Tám và thằng Chín, trọ học ở tỉnh sau nhiều đêm học tập chính trị đã được tổ chức tỉnh-đoàn lùa
đưa vào bưng gia nhập đoàn quân du kích. Người mẹ thấp thỏm và già nua khi mỗi ngày đêm khấn van cùng trời đất cho những đứa con có tin tức về nhà. Một đêm. Chó sủa trăng vằng vặc khi bóng du kích thấp thoáng ngoài bờ tre kẻo kẹt… cậu Chín về thăm ông bà Mười. Cha con lặng lẽ nhìn nhau, không nói. Ông Mười ngồi sửng nơi chiếc bàn như pho tượng cổ hom hem, bất động. Đứa con trai được tiếng là thư sinh bạch diện giờ đây đã rắn rỏi gió sương. Bà ...
This is a preview of the whole essay
đưa vào bưng gia nhập đoàn quân du kích. Người mẹ thấp thỏm và già nua khi mỗi ngày đêm khấn van cùng trời đất cho những đứa con có tin tức về nhà. Một đêm. Chó sủa trăng vằng vặc khi bóng du kích thấp thoáng ngoài bờ tre kẻo kẹt… cậu Chín về thăm ông bà Mười. Cha con lặng lẽ nhìn nhau, không nói. Ông Mười ngồi sửng nơi chiếc bàn như pho tượng cổ hom hem, bất động. Đứa con trai được tiếng là thư sinh bạch diện giờ đây đã rắn rỏi gió sương. Bà Mười khóc ngất thương con nửa mừng nửa tủi. Cô Út thì học ở tỉnh, nhà chỉ có con chó mực là cuống quít vẫy đuôi. Bà ôm Chín vào lòng như ngày còn thơ trẻ. Bà hấp tấp chạy vào khạp gạo định xớt ra bao cát cho con tải theo vì bà thấy có vài bóng người trước sân chờ con bà. Nhưng Chín khoát tay ngăn mẹ. Bà lại lính quýnh chạy ban vào phía cái tủ chân quỳ, tính lấy cho con ít tiền để khi cần mà có xài. Chín cũng lắc đầu nói không cần và không có chuyện để tiêu xài. Ông Mười nói thôi thì bà cứ ngồi xuống ghế mà nói chuyện với con đi, chắc con nó cũng không có thời giờ lắm đâu. Bà Mười nghe như giò cẳng mình tự nhiên đứng trân không còn cử động. Nhịp tim bà bóp thắt nghẹn ngào. Người lạ mặt đi cùng với Chín bước vào…bà thương con quá mà ngẫn ngơ không biết phải làm gì. Ông cũng bối rối cứ chớp mắt nhìn con mà dạ đau như muối xát. Dường như nó nói gì đó mà bà không nghe vì tai bà như ù điếc khi bà biết thời khắc mẹ con gặp nhau đã hết vì người lạ mặt khẻ đạt tay lên vai nó và Chín lắp bắp giã từ. Sau này bà giận mình đã không nhớ để đưa con chai cù là ông hổ cho nó phòng khi cảm mạo gió mưa… Sau đêm hôm đó bà Mười đau liệt giường và ông Chín cũng lầm lì ít nói hơn. Không ai biết nguyên do dù cô Út Hết mỗi tuần trọ học ở tỉnh về có hỏi han bệnh tình của mẹ, ông Mười chỉ nói má con đau bệnh già vậy mà và ba nghĩ chắc con nên học hết năm nay rồi ở nhà chăm sóc má đi. Năm đó cô Út học đệ tứ. Thuở ấy con gái mà học tới đó kể cũng là cao lắm rồi. Ngoài Huyện thì lác đác một hai gia đình có con đeo đẳng tới đó thôi chứ trong làng nào thấy có ai đâu. Khi nghe cha nói thế cô tuy không dám thưa gởi gì hết nhưng trong dạ rất lấy làm buồn. Cô tính xong trung học đệ nhất cấp cô sẽ xin ba má cô cho lên Sàigon học tiếp, để tệ lắm cũng phải thi cho xong cái tú tài phần nhứt như các anh lớn của cô chứ. Cô đâu thích như mấy bà chị hể cứ tới tuổi cập kê có người mối may dạm hỏi là gật đầu ưng liền. Cô từng cười thầm chê là các chị không biết tình yêu gì ráo, cha mẹ ‘chịu” là “ưng” theo. Chán ngấy! Các chị cô dường như cũng khá tinh ý biết cô em Út có mòi văn minh hơn nên chê mình, thỉnh thoảng cũng mắng thương cô Út, tụi tao cũng chống mắt coi mày học tới đâu mới chịu có chồng, học cho cố…không ai dám ngó tới đâu nhen Út. Cô chỉ cười cười, không ai lấy thì “ở dậy” cho khoẻ có sao đâu… Rồi mùa mưa năm nào…người ta thấy bà Mười không nhiên đi sắn một mớ măng non mướt nói là đem bán cho bạn hàng ở tỉnh về dặn hàng từ trước. Điều mà họ chưa bao giờ thấy bà làm vì bà đâu có cần tiền? Hồi nào giờ măng chỉ dưỡng cho thành tre để bán cho mối lái miệt miền tây đi ghe lên mua như thành thông lệ rồi. Trong xóm làng nếu ai thèm măng họ đến xin mua, bà cho chứ không bán. Cũng có lắm người hái trộm để ăn mà không cần làm cảnh hỏi han chi ráo, bà biết hết nhưng cũng lơ đi. Vì tình hàng xóm có đáng là bao tuy nhiên họ hái liều, không biết cách chọn để dưỡng cho bụi măng được tốt gọi là “có hậu”, ăn càn như vậy là có nước tiệt nọc tre luôn. Nhưng họ cũng không bận tâm để ý lắm, vì bà có nói là chỗ bà con nên nể tình bà sang măng cho họ làm măng khô buôn chuyến. Rồi buổi sáng đó trời còn tối mò bà đã nhờ cậu Hai Đực cuối xóm quảy gánh măng lên con đường đất để bà đón xe ngựa chở ra chợ Huyện ngồi ở khu đất chợ dành cho bạn hàng chờ mối láy đến mua. Bạn hàng từ các Huyện đổ về từ sớm để mua mão tất cả từ những rau cải gạo đậu, bắp cho đến gà vịt thịt thà… theo giá sĩ đem về chợ nhà bán lại kiếm lời. Đó là truyền thống lâu đời nơi đây. Khu chợ nầy được chia thành từng nhiều nhóm nhỏ riêng biệt theo mặt hàng và vì họp chợ từ khuya khoắt nên mọi người phải cầm đèn mù u theo đề mua cũng như bán. Đến khi trời hừng đông thì chợ bạn hàng tan và nhường lại sinh hoạt bình thường cho chợ Huyện. Gánh măng của bà Mười thu hút bạn hàng rau cải nhiều nhất vì những mục măng tre tàu và có cả loại măng mạnh tông hiếm quí được bà sắn từ chiều hãy còn lông măng tươi roi rói…Nhưng không ai trả được giá để mua vì bà nói …thách cao quá và bạn hàng nghĩ là chắc bà dành cho người quen hay sao mà trông bà cứ ngó quanh ngó quất như mong ngóng ai. Phải, bà đã giả đò sắm gánh măng bỏ chợ để gặp con bé Tám khi cách đây hai ngày có người bí mật đưa tin. Kia rồi, đứa con của bà kia rồi. Má Mười! Nó gọi khẻ và bà cũng hối hả,ngẹn ngào. Trời ơi, con tôi!... Cô Tám lặng lẽ quảy gánh măng và bà Mười lúc thúc theo sau. Tám chọn quán cà phê ông Tiều và mang cả gióng gánh vào bàn ngồi, gọi 2 ly “bạc sỉu”. Quán nầy chỉ bán cho khách xe thồ xe lôi chở bạn hàng.. đến sáng cũng hết khách và ông Tiều đóng cửa quán …ngủ. Cô Tám chọn bàn cuối quán ngồi ngó ra ngoài và nói mẹ ngồi nghiêng …khi bà khóc thúc thích định ngồi ở cái ghế đối diện với Tám để nhìn cho rõ mặt đứa con đã xa cách mấy năm. Tám nhíu mày, má ngồi vậy làm sao con thấy được động tịnh bên ngoài. Khi ông Tiều bưng cà phê đem ra Tám cười đon đả, chú Tiều biết hôn, hồi khuya hai mẹ con tui đói bụng vào quán cháo lòng bà Năm ăn 2 tô, không biết vì bà nấu huyết heo cũ hôm qua còn lại hay tại bụng tui xấu mà tôi bị đau dữ quá, kêu cà phê uống chần cho đở, lở có bề gì chú Tiều cho tôi đi…giải nhờ dí nhen. Ông Tiều cũng cười hịch hạc, được mà không sao. Tám vờ nhìn ra phía sau quán đó là một khu đất trống, trịch phía hông là bến đậu tạm của những chiếc xe thồ, và cửa sau quán lúc nào cũng mở cho thoáng khí. Tám kín đáo quan sát rồi mới yên tâm nói chuyện với mẹ. Bà cũng lặng lẽ nhìn bộ tịch đứa con mình rứt ruột đẻ ra mà nghe đau đáu nỗi linh cảm nào đó như vô cùng cách biệt. Bà hỏi han về thằng Chín, Tám nói tổ chức đã lưu ý Chín vì gặp gia đình bi lụy quá, tình cảm kiểu tiểu tư sản như thế không phù hợp với tinh thần kháng chiến du kích quân. Bà Mười ràn rụa nước mắt, ..con của mẹ mà! Giọng Tám nhỏ vừa đủ cho mẹ nghe nhưng thật là cứng cõi đến lạnh lùng,… nhưng nay tụi con đã là con của du kích của tổ quốc rồi.. má Mười phải hiểu thêm như vậy. Bà gật gật đầu mà nghe như đứt từng đoạn ruột, má biết mà…nhưng dù gì thì con và thằng Chín cũng nói nhau rán lâu lâu về thăm nhà con ơi, má nhớ thương mấy con quá mà không biết làm sao. Giọng Tám vẫn không đổi, má nè, con biết má thương con nhưng tụi con đã ly khai gia đình rồi và không để tình cảm cá nhân làm bịn rịn được, anh em đội, ai mà chẳng có má có ba nhưng tổ quốc cần những đứa con hơn má hơn ba, nhà bây giờ là đồng đội là tổ chức, thằng Chín đã xin chuyển đổi vùng khác sau chuyến về thăm nhà…Bà Mười nấc lên không để Tám nói hết lời. Bà nhìn sửng con, khuôn mặt Tám đã thay đổi khá nhiều, đen sẩm và như già cỗi đến lạ lùng. Con bà đó sao? Người đưa hẹn đã căn dặn bà thật chắc, là chỉ gặp mình bà mà không có ông Mười cho được kín đáo. Ngày xưa. Lòng bà thật rõ não nề khi nhớ tới chữ “ngày xưa”: Con Tám theo cha phải biết, nó cứ thủ thỉ với bà là nửa lớn nó vẫn ở nhà của nó mà không thèm có chồng, chứ ai đời như các anh chị hể có vợ có chồng là đi mút chỉ phải đợi Tết hay giỗ quảy mới chịu ló đầu về thấy mà bắt chán. Bà nghe nó nói mà thương quá chừng nhưng bà quở nó, bậy nà ! con gái lớn lên phải có đôi có bạn,” ở vậy “người ta cười cho là nhà có con gái ế. Ờ mà con chỉ ưng đám nào ở gần thôi để canh chừng nhát lâu chạy ù về thăm ba và má Mười cho hết nhớ. Bà nhớ nó nói rỏ từng chữ như vậy mà. Lần nầy thì bà không thể quên như lần thằng Chín về. Bà đưa cho con gái cái bọc ny lon với nhiều gói nhỏ đã được bà gói ngụy trang bằng lá chuối giống như những gói xôi hay gói bánh. Má đưa con để dành xài, có cái đồng điếu xưa cũng gởi theo cho con cạo gió với hủ dầu cù là, thuốc cảm mạo đau bụng nhức đầu và một ít tiền hậu thân. Tám nhíu mày nhìn bà Mười, cái nhìn sắc bén khiến bà bắt rùng mình. Cái nhìn mà bà thấy như không phải của đứa con khi nhìn mẹ: Tất cả, con đã có tổ chức và anh em lo đầy đủ hết. Má đem về đi. Nó trả lại cho bà. Bà Mười nghe tay mình lạnh ngắt. Gan ruột bà thật sự đã đứt lỉa. Bà thấy con mình giờ đây xa lạ quá, nó nói năng giống hệt như chuyện trong mấy cuốn sách mà bà đã đọc từ Sở Thông Tin mà thằng Bảy đem về. Lúc ấy bà cười cho là nhà nước nầy chỉ khéo bày viết chuyện tuyên truyền về phía bên kia thôi…Nhưng nay, chính bà lại nghe con mình lập lại in rặc cái giọng điệu chói chang ấy. Bà thấp thỏm không biết nói gì với nó nữa, lòng thương của người mẹ tự nhiên bị ngăn lại. Dâng trào tức tưởi. Tám nhìn ra trời rồi lạnh lùng bảo mẹ, trời sáng ửng rồi. Con phải đi thôi, ra chỗ hẹn sớm để đồng chí dẫn đường khỏi chờ. Cho mẹ đưa theo con thêm một chút nữa nhen. Tám lắc đầu. Không cần đâu, rườm rà lắm. Bao lâu con với Chín về thăm mẹ nữa? Má Mười đừng trông, hòa bình rồi cả nước cùng vui, mình toàn tụ luôn mà. Nó đi rồi bà ngồi lặng yên, ngẹn như không thở được. Mặc dù trong mẹ thương con vô bờ… bà tự nhủ. Thôi con về là vui rồi và nó đi an toản là được. Nó lớn rồi…nó đâu phải là con của mình nữa. Nó nói …đúng. Được phần nào thì cứ vui phần ấy. Mất phần nào thì cũng đành phải đành chịu vậy thôi. Cũng như Út Còn, thằng con thứ mười bà thương đáo để. Về phép thăm cha mẹ ban ngày. Ban đêm phải ra Huyện ngủ nhà bạn vì…ngại du kích về thăm xóm. Được vài lần…rồi cũng nghe báo tin mất tích trong một trận hành quân thọc sâu vào lòng địch tạm chiếm. Sau thời gian chính quyền tái chiếm, mấy anh lớn của Út cũng lên tận nơi tìm xác nhiều lần nhưng không được vì nghe nói có người thân nhân của các binh lính tử trận đã tìm được xác chôn chung và họ đã khấn xin đem đi chỗ an lành để táng hết rồi. Năm nào đó, ông bà Mười cũng hay tin rằng…cái lần mà Tám và Chín về thăm bất chợt đó là lần cuối cùng. Hoà bình rồi cũng về nhưng con bà không về như nó nói. Đêm ngủ yên hơn vì không còn nghe tiếng súng nhưng bà Mười lại bị bệnh mất ngủ như kinh niên. Đôi khi ngủ được thì bà nằm mộng chỉ thấy những cổ quan tài trôi nổi bập bềnh trên sông nước. ..Còn ông Mười thì cũng không khá gì hơn. Ông thức đọc sách tới khuya mà nghe mơ hồ như có tiếng gỏ cửa nhè nhẹ của thằng Út Còn từ Huyện về thật sớm khi trên tay còn cầm cái bánh bao nóng hổi mua ở tiệm chú Tiều hay gói trà Thiết quan Âm gói giấy đỏ trong những kỳ nghỉ phép. Ông lại thức dậy thật sớm, ngồi trầm tư nơi chiếc bàn thạch mát rượi, trước bàn thờ của tổ tiên. Ông chờ bình nước nóng từ bà Mười hay cô Út vừa châm để ông ngồi uống trà tới sáng. Có hôm khuya khoắt ông mường tượng như nghe tiếng chó sủa ánh trăng non từ xa vọng lại. Cái không khí nghe lạnh nhẹ như cánh cửa mở và thằng Chín bước vào, đôi mắt long lanh và đằm thắm nhìn ông với cái cười không trọn… Những lần như thế, ông hay nhìn lên bàn thờ với khói huơng ban sáng. Ông nghĩ về lời nguyền được truyền tụng lại như lời ghi hờ trong gia phả của giòng họ nhà ông. Lời dự đoán của một người Miên khi được ông cố tổ của cuộc đất trong những ngày khai khẩn mời đến xem qua về địa thế. Người Miên ấy là một ông già râu chòm, miệng nhai trầu không ngớt, tay cầm đầu gậy bịt vàng nhưng chân đi giày vải. Một đàng là người Miên và một đàng là người Việt và họ nói chuyện với nhau bằng tiếng quan thoại. Về phần đất và mà tổ tông ông đã khó nhọc vun bồi. Về những bất hạnh và vinh quang. Về kẻ ra đi và người ở lại. Phần đất “dưỡng” người chứ không “giữ” được người. Kẻ cuối cùng là người phải chứng kiến hết những tai ương trong đơn độc,“Phước” “Lộc” khó đồng đều. Phần đất mà tuổi thọ của nó nghìn năm sẽ có cơ may “đải đất thành vàng”. Ông tổ đã chọn nơi đây lập nghiệp, dạy những người kế tục phải dửng dưng trước nạn tai hay vinh hiển. 3./ Gia phả giòng họ cô Út Hết. Theo cuốn Gia phả để lại thì cô Út mang trong người ít nhiều huyết thống của thị tộc du mục Mông Cổ, là thủy tổ nhà Hán đã vượt sông Hoàng Hà chiếm dần trung nguyên bao la và lập ra một Trung Hoa to lớn. Từ xa xưa đó đã nảy sinh ra chế độ nô lệ khinh rẻ và đối xử tàn ác với các Miêu tộc Trung Hoa gồm dân tộc Hán và Bách Việt ở phương Bác. Để lánh nạn, một số dân Bách Việt chạy về phương Nam là vùng cực Nam của Bách Việt lập nên Việt cổ. Vì là giống dân du mục thường xuyên phải chống chõi với thú rừng và các sắc dân du mục khác nên cuộc sống của họ là chuổi những đấu tranh không ngừng nghỉ. Là một chủng tộc rất mạnh mẽ, có bản năng sinh tồn cao vì sống ở miền núi đồi hiểm trở thích cưởi ngựa bắn cung đô vật và họ đã lần hồi xâm chiếm lục địa Trung hoa rất dễ dàng. Nhưng hơn ai hết, họ cũng khát khao một cuộc sống đơn thuần êm ả hơn là làm cơn trốt xoáy chỉ chực cuốn phăng đi những phần đất hiền hòa yên ổn. Qua mùa chinh chiến …khi “thân” đã “bình” và “tâm” đã “lặng” họ chợt bâng khuâng khi nhìn những dãy đồi núi ngút ngàn suốt bốn mùa mây phủ sương giăng trước mặt mà biên giới đã mất hút dưới vó ngưạ xâm lăng. Những nơi họ đi qua…cung điện đã quạnh hiu, thành quách thì điêu tàn và nhân dân ta thán… Như con nước xuôi nguồn… khi thống lĩnh dân bản xứ Bách Việt xuôi chảy về phương Nam… Họ bàng hoàng như chợt thấy ra bao điều kỳ diệu, họ nhìn ngắm người dân bản địa: đơn sơ nhưng hạnh phúc, mộc mạc mà nhiệt tình. Bằng lối sống quây quần trong thôn ấp : tù trưởng và các tộc bộ với chế độ mẫu hệ ấm nồng đã thực sự thuần hóa trái tim khô lạnh của những kẻ cô đơn chỉ quen sống trên lưng ngựa và cung tên. Lịch sử là giòng cuồng lưu đầy biến động và bản chất của nó là những đổi thay bằng trấn áp hoặc hài hòa. Không có sự loại trừ bất cứ dân tộc nào dù bần cùng hay cao quý có thề thoát khỏi bánh xe hiển nhiên của giòng lịch sử vô tình mà khốc liệt. Một dân tộc hung hãn, có thể làm tình trên lưng ngựa và chỉ với tiếng vó câu cũng đủ làm bạt vía cả núi đồi cây cỏ, cũng như sẵn sàng dẫm nát dân man di bằng gót chân xâm lược của chính mình. Sự kiếm tìm hạnh phúc bằng cách hủy diệt sự sống kẻ khác chỉ để lại trong tâm thức họ những vùng sa mạc hoang sơ như chính nơi đã sản sinh ra họ…Từ đó một nhóm dân Mông cổ đã ly khai giai cấp thống lĩnh để hòa nhập vào đời sống dân bản địa. Họ tập sống định cư bằng nghề làm ruộng, chăn nuôi và đánh cá… từ đó họ hiểu được dân cổ Việt có một đời sống tinh thần văn minh rất cao. Chính nơi đây đã phát sinh ra nền nông nghiệp rất sớm để công nghiệp hình thành với những nông cụ thô sơ và kỹ nghệ luyện kim để đúc trống đồng. Dân Việt cổ còn biết tôn trọng nhân nghĩa dù chưa có tôn giáo làm nền, họ có tính hiếu khách, gắn bó mật thiết với gia tộc cũng như thường thể hiện được tinh thần đoàn kết tập thể cao, biết hoài bão và sống có kỹ cương. Khi họ làm việc thì cần cù chăm chỉ và sáng tạo lại biết cách trồng trọt thuận theo gió muà và thời tiết, cải biến cây cối để nâng cao thu hoạch. Đó là một nền văn hóa đặc thù thuần chất bản địa không hề chịu ảnh hưởng từ các thế lực trấn áp của giai cấp thống trị luôn tìm cách chiếm lĩnh và phá hoại để xóa nhòa nguồn gốc chính thống cùa dân bản địa. Khi dân Trung hoa nhà Hán dành được quyền tự chủ từ Mông tộc thì họ liền củng cố thế lực và thực hiện chủ trương xâm lấn những thị tộc khác để bành trướng bá quyền. Người Việt cổ lại nằm trong ách thống trị lâu đời của Hán triều và mặc dù triều cống hàng năm gồm trà thơm, vàng, đồng, ngà voi hay lụa gấm … họ còn bắt đi những thợ gốm giỏi hay phụ nữ đẹp của Bách Việt đem về Tàu. Nhà Đông Hán biết Bách Việt có linh vật giữ nước với uy lực rất lớn là Trống đồng, đem dùng trong lúc lâm trận đánh lên khiến tinh thần quân sĩ vô cùng hăng hái nên đã sai Mã Viện phá hủy Trống đồng Bách Việt để đúc cột đồng trụ phân ranh biên giới từ Động đình Hồ xuống phía nam của Lĩnh Nam. Nhóm người Mông quí tộc ly khai đã nhìn thấy được sức sống tiềm ẩn mãnh liệt của dân cổ Việt trong thời kỳ Bắc thuộc phải dùng chữ Hán như một văn tự chính thức trong nước nhưng tiếng Việt vẫn sinh tồn khi giữ được chữ Nôm bên cạnh để biên chép những thứ văn viết bằng tiếng ta. Đồng thời người Việt đã âm thầm phản kháng bằng cách chôn dấu những gia sản của dân tộc mình như dụng cụ đá mài hay đồ gốm dưới lòng đất sâu hoặc bỏ lên rừng ẩn sống để tránh sự dòm ngó của tầng lớp cai trị hà khắc. Sức sống đó là hồn thiêng sông núi của dân Đại Việt đã giúp một Ngô Quyền thắng quân Nam Hán dành lại chủ quyền sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Trong số Mông tộc nầy có Tổ họ nhà cô Út trong thời ban sơ đã hòa trong giòng sống của người Việt cổ, xuôi về phương Nam đến vùng đồng bằng nằm giữa sông Hồng và Tô Lịch. Bước chân du mục đã dừng lại nơi phong cảnh hữu tình với địa thế núi sông và biển cả như kết tụ được nhiều vượng khí nầy. Cụ Tổ họ đã chỉ cho con cháu thấy vùng núi non trùng điệp từ mạn Nam Hoa đều xuôi thoải thoải về Tây Bắc và Đông Bắc: núi cùng sông đều như đoàn rồng vẫy đuôi về chầu phục, ngoài xa khơi về phía Đông thì được đại thủy của vịnh Bắc Việt và Thái Bình Dương bao bọc như hun đúc thần lực rất lớn có thể trấn áp được sát khí từ những cuộc biến động nhỏ. Quả là vùng địa linh sẽ sinh nhân kiệt, thế đất sẽ có những hiền nhân cai trị nước an bình. Tổ còn căn dặn cháu con giữ nước đang ở và phò vua trị vì, dù còn phải bôn ba mấy lượt bởi Tổ xem mạch núi cao và dài cứ xuôi dần về “ đàn trong” nên đoan chắc đất nước Việt sẽ mở mang bành trướng về phương Nam. Các hậu Tổ nhớ lời khuyên dạy, theo chân Chúa Nguyễn xâm thực lần hồi về phía cực Nam với một lòng trung quân ái quốc. Có lúc cũng thong dong nơi phủ đình gác ngọc vịnh phú ngâm thơ thì cũng lắm khi vất vã gian nan cùng đoàn tùy tùng dung ruổi mộ dân xuôi Nam khai khẩn. Cuộc đời khi vinh hiển lúc quạnh hiu như lẽ thường tình trong nhân thế. Có điều, ra vào chốn hoạn lộ am tường lòng dạ vua tôi thì mới thấm thía hết nỗi cay đắng hay ngọt bùi của phận tôi trung vị nước. Thời loạn thì quân thần một bề giữ nước, khi bờ cõi tạm an thì lợi danh xâu xé. Người người ngó dòm nhau vì chút bổng lộc vua ban hay tranh dành phẩm trật nơi trào ca phủ huyện….đã làm ngao ngán các cụ Tổ từng vào tử ra sinh, cái chết đã xem nhẹ tợ lông hồng thì sá gì chút mồi thơm chung đỉnh. Từ đó…các cụ khuyên con cháu nên cẩn trọng với lợi danh phú quí… Toàn bộ Gia phả không do các cụ Tổ đương thời hạ bút mà chỉ do lần hồi được ghi lại qua lời kể của cha ông truyền tụng, khi thì được viết bằng chữ Hán lúc bằng chữ Nôm. Mỗi vị trong cách sống và suy nghĩ đã dạy lại con cháu qua chính kinh nghiệm của mình, trải qua bao đời đã trở thành như một thứ sấm lệnh tiên tri và con cháu đã triệt để thi hành. Lời cụ Tổ dạy truyền con cháu phải sống thuận theo mệnh trời vận nước lấy điều “Nhân-Nghĩa” làm đầu, ơn ích thì nhớ để báo đền còn hận thù nên cởi bỏ. Học hành nên đổ đạt cao…nhưng phải biết xem nhẹ công danh hoạn lộ. Khi nước “biến” hết lòng xã thân đền đáp nhưng khi “bình” thì lui ẩn điền viên. Chọn kinh điển làm kim chỉ nam và sách Thánh hiền làm bạn, quý trọng những người có khí tiết không giao du với người xu nịnh mọn hèn... Mơ hồ những lời xa xưa đó như khắc ghi trong huyết thống của những người con mang giòng họ của một tổ tiên can cường và dõng mãnh…. *bienthithanhliem.